Độc quyền tự nhiên Độc_quyền_(kinh_tế)

Tình trạng độc quyền tự nhiên đến từ chính trong bản chất của thị trường, của ngành nghề cụ thể, dẫn đến việc chỉ có một hoặc một vài doanh nghiệp cung cấp trong ngành. Đó có thể là:

- Lợi thế người dẫn đầu. Doanh nghiệp bạn là người đi đầu tiên trong lĩnh vực ngành, trong khu vực đó, khiến hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp đến sau khó vượt mặt bạn, dù sản phẩm họ tốt hơn. Ví dụ, dịch vụ internet ở các chung cư, 1 chung cư chỉ có bạn cung cấp và 100% hộ dân đều dùng, bạn tính phí người dùng để vừa đủ có lợi nhuận. Đối thủ đến sau sẽ phải xem xét nếu lợi thế cạnh tranh của họ không vượt xa bạn, việc đầu tư vốn và chi phí để giành khách hàng sẽ cao hơn người đi đầu(bạn) và doanh số ước tính chỉ khoảng 50% hộ dùng, cả hai doanh nghiệp sẽ lỗ nếu cạnh tranh cách này, chỉ người dùng được lợi.

- Lợi thế quy mô. Giả sử ban đầu 2 doanh nghiệp bằng nhau về vốn và công nghệ, nhưng doanh nghiệp bạn làm tốt hơn một chút, khiến lợi nhuận bạn cao hơn, bạn tái đầu tư vào doanh nghiệp nhiều hơn đối thủ, việc tái đầu tư này, qua thời gian sẽ khiến bạn vượt mặt đối thủ bằng việc giảm giá thành, tăng doanh số bán. Về lâu dài đối thủ không thể cạnh tranh lại bạn.

- Các mô hình độc quyền tự nhiên khác rất đa dạng, bạn có thể tự tìm từ kinh nghiệm của bản thân bạn.

Tổn thất phúc lợi

Do chi phí sản xuất ra một đơn vị sản phẩm tăng dần theo quy mô nên chi phí biên của doanh nghiệp độc quyền tự nhiên có xu hướng giảm và luôn thấp hơn chi phí sản xuất trung bình. Tại trạng thái đó sản lượng sẽ thấp hơn và giá cao hơn so với trạng thái cân bằng của thị trường cạnh tranh khi mà giá bán hay lợi ích biên bằng giá sản phẩm. Sự giảm sút sản lượng cũng gây ra tổn thất.

  • Chính phủ quy định cho doanh nghiệp một mức giá sao cho mức giá đó không làm cho nhưng mặt hàng khác có giá tăng theo(tránh hiện tượng ngoại ứng), tránh hiện tượng cùng một lúc hàng loạt mặt hàng tăng giá thì sẽ gây nên bất ổn trong đời sông nhân dân. Cách này xóa bỏ hoàn toàn được doanh thu siêu ngạch của doanh nghiệp và giảm được đáng kể tổn thất nhưng không loại trừ hoàn toàn được nó vì vẫn chưa đạt được mức sản lượng hiệu quả.
  • Chính phủ quy định cho doanh nghiệp một mức giá bằng chi phí sản xuất để đạt mức sản lượng hiệu quả rồi bù đắp lỗ cho doanh nghiệp bằng một khoản hỗ trợ (vd: cho vay với một lãi xuất thấp...). Biện pháp này hoặc sẽ gây méo mó về giá cả nếu sử dụng loại thuế không phải thuế khoán hoặc sẽ làm người đóng thuế thắc mắc nếu áp dụng thuế khoán.
  • Doanh nghiệp sẽ định giá gồm những phần khác nhau: phần thứ nhất đưa ra để phục vụ cho nhưng đối tượng khách hàng co nhu cầu cao đối với sản phẩm đó, sau một thời gian doanh nghiệp sẽ giảm giá sản phẩm để có thể tăng thêm những đối tượng khách hàng tiềm năng, ví dụ điển hình về vấn đề này như hãng điện thoại lớn nhất thế giới Nokia đã giảm giá đối với những dòng diện thoại cao cấp để nhưng khách hàng khác có thể mua với một mức giá phù hợp hơn sau một thời gian bán giá cao cho những người có nhu cầu.